Biển Đông giàu về loại tài nguyên khoáng sản nào sau đây?

Mỹ tố Trung Quốc quấy phá ngày càng nhiều ở biển Đông #shorts
Mỹ tố Trung Quốc quấy phá ngày càng nhiều ở biển Đông #shorts

Mục lục bài viết

1. Khái quát về Biển Đông

Biển Đông là một biển nửa kín, rộng khoảng 3,4 triệu km2, được bao bọc bởi 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan), Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, In-đô-nê-xia, Thái lan, Căm-pu-chia và Sing-ga-po.

Biển Đông là tuyến vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai thế giới sau tuyến Địa Trung Hải với khoảng 150 – 200 tàu trọng tải lớn qua lại mỗi ngày. Các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào tuyến hàng hải qua Biển Đông (70% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc qua Biển Đông). Biển Đông giàu tài nguyên như dầu, khí đốt và nhiều loại khoáng sản có giá trị như sắt, ti tan, cát thủy tinh, đặc biệt có loại khí đốt gọi là băng cháy với trữ lượng được đánh giá tương đương với trữ lượng dầu khí; nguồn tài nguyên thủy sản to lớn (với hơn 1,000 loài cá, trong đó có 20 loài có giá trị). Biển Đông đem lại cho các quốc gia ven Biển Đông những điều kiện tự nhiên thuận lợi to lớn để xây dựng và phát triển kinh tế.

Biển Đông có vị trí chiến lược quan trọng, nối liền Thái Bình Dương với ấn Độ Dương; cũng là nơi tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều nước giữa Việt Nam và Trung Quốc (đối với quần đảo Hoàng Sa), giữa Việt Nam, Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây (đối với quần đảo Trường Sa) và được quốc tế quan tâm vì liên quan đến vấn đề tự do, an ninh, an toàn hàng hải.

2. Tài nguyên khoáng sản ở Biển Đông

Khoáng sản là thành phần tạo khoáng vật của lớp vỏ Trái Đất, mà thành phần hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế quốc dân. Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên khoáng sản vô cùng phong phú và to lớn. Theo các chuyên gia, nước ta có đến hơn 5000 điểm mỏ của 60 loại khoáng sản: từ khoáng sản kim loại, khoáng sản năng lượng đến khoáng sản vật liệu xây dựng. Dưới đây là các loại khoáng sản mà Biển Đông giàu có nhất:

2.1. Dầu khí

Đứng đầu trong danh sách các loại khoáng sản có trữ lượng lớn nhất nước ta phải kể đến dầu khí. Vùng biển Việt Nam rộng hơn 1 triệu km2, trong đó, hơn một nửa có tiềm năng khai thác dầu khí. Theo các chuyên gia, những khu vực có trữ lượng dầu khí bao gồm: khu vực biển Trường Sa, biển Nam Côn Sơn, đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng. Loại khoáng sản nào sau đây không có ở biển Đông: dầu khí sắt muối biển titan Hiện nay, các nhà máy có thể khai thác 30 – 40 nghìn thùng/ngày, tương đương khoảng 20 triệu tấn/năm. Tài nguyên dầu khí của nước ta rất phong phú, hầu hết diện tích chứa dầu khí đều nằm trên vùng thềm lục địa với độ sâu không lớn, trên toàn bộ diện tích nghiên cứu đã xác định được 20 vùng với những mức độ triển vọng dầu khí khác nhau, nhưng do điều kiện khai thác và thăm dò khó khăn, mới có 4 vùng có triển vọng cao, trong đó có 2 vùng đang được khai thác có hiệu quả là bể dầu khí Cửu Long và bể khí Nam Côn Sơn. Kết quả tìm kiếm thăm dò trong thời gian qua đã xác định ở vùng biển Việt Nam có 8 bể trầm tích Đệ Tam: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn Thổ Chu – Mã Lai, Sông Hồng.

2.2. Cát thủy tinh

Cát thủy tinh ở nước ta có hàm lượng SiO2, độ tinh khiết, độ trắng cao, đủ điều kiện để sản xuất các mặt hàng thủy tinh dân dụng và các mặt hàng thủy tinh cao cấp. Cát thủy tinh phân bố ở nhiều nơi, tuy nhiên những nơi tập trung thành mỏ không nhiều. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, các mỏ cát thủy tinh ở nước ta đều thuộc cỡ nhỏ đến cỡ trung bình và phân bố ở: Vân Hải (Quảng Ninh), Nam Ô (Đà Nẵng), Quảng Ngãi, Nha Trang. Cát trắng là một trong những khoáng sản chính ven biển Việt Nam, phân bố rải rác dọc bờ biển từ Bắc đến Nam. Hiện nay có khoảng 20 mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò với tổng trữ lượng khoảng 584 triệu tấn.

2.3. Quặng Titan

Các điểm và mỏ quặng titan phân bố dọc theo đường bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) tới Nam Trung bộ. Trữ lượng titan dự báo đạt 22 triệu tấn. Trữ lượng đã thăm dò đánh giá là 16 triệu tấn. Thành phần quặng là inmenit, rutin, có kích thước hạt từ 0,5mm đến 2,3mm nằm trong cát ven biển. Hiện nay một số địa phương đã tiến hành khai thác inmenit và rutin để xuất khẩu như ở Hà Tĩnh, Quảng Trị… Nước ta có nguồn tài nguyên titan khá phong phú và đa dạng. Có thể phân chia quặng titan thành 2 loại chính:

+ Quặng titan gốc trong đá, tập trung chủ yếu ở: Thái Nguyên, Phú Lương.

+ Quặng titan sa khoáng, phân bố chủ yếu ở các tỉnh ven biển từ Móng Cái đến Vũng Tàu. Khoáng sản là nguồn tài nguyên không thể tái tạo.

2.4. Trữ lượng muối lớn

Muối biển là tài nguyên lớn của nước ta. Việt Nam có đường bờ biển dài 3260km. Độ muối trong nước biển trung bình 3,2%, xấp xỉ độ muối bình quân ở đại dương. Do hình thể kéo dài theo chiều kinh tuyến và nằm trong vùng khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm nên có sự phân hoá thành hai kiểu: kiểu chí tuyến ở miền Bắc và kiểu xích đạo ở miền Nam. Vì vậy, mặc dù có số giờ nắng cao song do độ ẩm lớn, mưa nhiều nên ảnh hưởng không nhỏ tới thời vụ sản xuất cũng như năng suất muối ở khu vực.

2.5. Một số loại tài nguyên khoáng sản khác ở Việt nam

– Than khoáng:

Việt Nam là đất nước có tiềm năng về than khoáng trong đó có 3 loại phổ biến là than biến chất thấp (lignit – á bitum) ở phần lục địa trong bể than của sông Hồng. Tính đến chiều sâu khoảng 1700m có tài nguyên trữ lượng đạt được 36,960 tỷ tấn. Nếu tính đến độ sâu 3500m thì theo dự báo tổng tài nguyên than đạt tới 210 tỷ tấn. Than biến chất trung bình (bitum) được phát hiện ở khu vực Thái Nguyên, vùng sông Đà và Nghệ Tĩnh. Trữ lượng lại không lớn, và chỉ đạt tổng tài nguyên khoảng 80 triệu tấn. Than biến chất cao (anthracit) thường phân bố chủ yếu ở các bể than như: Quảng Ninh, Nông Sơn, Thái Nguyên, sông Đà với tổng lượng đạt trên 18 tỷ tấn. Bể than Quảng Ninh là lớn nhất với trữ lượng đạt trên cả 3 tỷ tấn.

– Bauxite:

Bauxite (hay bô-xít) là một loại quặng nhôm có nguồn gốc từ núi lửa có màu hồng, nâu, được hình thành trong quá trình phong hóa các đá giàu nhôm, phân bố chủ yếu ở các vành đai xung quanh xích đạo, và đặc biệt là trong môi trường nhiệt đới. Bauxite có 2 loại phổ biến là diaspor và gibsit. Trong khi Diaspor phân bố ở Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hải Dương, Nghệ An…với trữ lượng không lớn chỉ đạt gần 200 triệu tấn, thì Gibsit, guồn gốc phong hoá từ đá bazan, phân bố phổ biến ở Tây Nguyên, trữ lượng đạt khoảng 2,1 tỷ. Bauxite được khai thác thử nghiệm để sản xuất alumina ở Tân Rai, Đăk Nông, Lâm Đồng và Nhân Cơ. Việt Nam có trữ lượng bauxite lớn, chất lượng, phân bố tập trung, khai thác vô cùng thuận lợi. Do đó, cần phải khai thác và chế biến để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

– Apatit:

Đây là một nhóm các khoáng vật phosphat gồm hidroxylapatit, cloroapatit, floroapatit. Nó là nguồn tài nguyên khoáng sản quan trọng của đất nước để phát triển kinh tế xã hội. Mỏ quặng apaitit của Việt Nam tập trung phổ biến ở Lào Cai. Quặng apatit ở đây được sử dụng cho ngành công nghiệp sản xuất phân bón chứa lân. Apatit Lào Cai được phân chia ra 4 loại quặng khác nhau: Quặng loại I: Là loại quặng đơn khoáng, với hàm lượng P2O5 chiếm từ 28-40%. Quặng loại II: Hàm lượng P2O5 chiếm 18-25%. Quặng loại III: Là quặng apatit-thạch anh, với hàm lượng P2O5 chiếm từ 12-20%, trung bình khoảng 15%. Quặng loại IV: Là quặng apatit-thạch anh-dolomit, với hàm lượng P2O5 8-10%.

– Đất hiếm:

Là loại khoáng sản có trữ lượng “vô cùng ít” trong lớp vỏ Trái Đất, đất hiếm là nguyên liệu quan trọng để sản xuất các vật dụng: nam châm vĩnh cửu, phân bón vi lượng, đèn cathode. Tuy nhiên, đất hiếm tại chứa rất nhiều nguyên tố độc hại, nếu không được khai thác theo quy trình, đất hiếm sẽ gây hại cho công nhân cũng như gây ô nhiễm môi trường. Thành phần quặng là khoáng vật xenotin và monazit, có mầu hồng xám hoặc lục với kích thước hạt từ 0,5mm đến vài milimet, nằm trong cát ven biển. Những diện tích chứa quặng phân bố dọc bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Vũng Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng monazit, xenotin, đạt từ 90% đến 95% không thua kém chất lượng khoáng vật cùng loại của một số nước trên thế giới. Hiện nay đất hiếm đã được khai thác để phục vụ cho các ngành công nghiệp: sản xuất thủy tinh cao cấp, thực phẩm, sản xuất phân vi lượng, thuốc trừ sâu, thuộc da… Trữ lượng của đất hiếm nằm trong sa khoáng ven biển nước ta khoảng 300.879 tấn.

– Đá vôi:

Nguyên liệu chính để sản xuất ra những bao xi măng chính là đá vôi. Tại nước ta, đá vôi phân bố chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam. Ngoài việc khai thác để sản xuất xi măng, đá vôi còn được sử dụng cho các ngành như: luyện kim, sản xuất thủy tinh, sản xuất hóa chất.

Hy vọng bài viết trên đã cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn.

Bạn đang xem bài viết: Biển Đông giàu về loại tài nguyên khoáng sản nào sau đây?. Thông tin do truongmaugiaoso8-badinh.edu.vn chọn lọc và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác.

Rate this post

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *